Lên kệ khắp thế giới, nhưng doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam chiếm chưa đến 3%

Theo thông tin từ Hội Lương thực Thực phẩm (LTTP), với lợi thế về điều kiện tự nhiên gắn với định hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, các sản phẩm nông sản và thực phẩm chế biến của Việt Nam hiện đã có mặt tại trên 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Nhu cầu tiêu dùng ngày càng xanh hóa

Có một thách thức lớn là các thị trường nhập khẩu và tiêu thụ hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… và ngay cả thị trường nội địa đang ngày càng gia tăng yêu cầu về tính bền vững đối với sản phẩm trong toàn bộ chuỗi cung ứng. Hành vi tiêu dùng của khách hàng cũng có nhiều thay đổi. Đặc biệt, người dân đang dần quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ môi trường. Nhu cầu sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc hữu cơ và xanh hóa có xu hướng tăng cao.

Theo Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2021 – 2023, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm xanh tại Việt Nam tăng trưởng trung bình 15%/năm. Có đến 72% người tiêu dùng sẵn sàng chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm xanh.

Báo cáo của Euromonitor cho thấy thị trường thực phẩm hữu cơ tại Việt Nam đạt giá trị 100 triệu USD vào năm 2023, tăng trưởng 20% so với năm 2020. Tuy nhiên, để phát triển theo hướng hữu cơ, bền vững, người sản xuất phải đối mặt với không ít khó khăn.

Công nghệ và vốn: Hai… cục xương khó nhằn

Ông Đặng Kim Sơn – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp Nông nghiệp Ứng dụng Công nghệ cho biết hiện chỉ có khoảng 1 – 2% doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp. Trong số đó, chưa đến 50 doanh nghiệp được công nhận là “doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao”. Ngoài ra, số doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm không tới 3% tổng số doanh nghiệp nông nghiệp (dưới 300 doanh nghiệp).

Với quy mô đất đai manh mún và nguồn vốn nhỏ bé, trình độ chuyên môn kỹ thuật hạn chế, các hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp của Việt Nam chưa có điều kiện và năng lực để ứng dụng công nghệ cao.

Theo ThS Nguyễn Văn Ngà – Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Mebi Farm, thách thức lớn nhất hiện nay chính là công nghệ và vốn đầu tư. Một số báo cáo khoa học cho thấy hao hụt sau thu hoạch ở nước ta ước chừng khoảng 30 – 35% sản lượng. Nếu có công nghệ hiệu quả thì vấn đề này sẽ được giải quyết.

Từ góc nhìn doanh nghiệp, ông Phan Minh Thông – Chủ tịch HĐQT Phúc Sinh Group cho rằng bản thân doanh nghiệp phải ý thức được việc phát triển bền vững để gia nhập chuỗi cung ứng toàn cầu. Phúc Sinh là doanh nghiệp xuất khẩu hồ tiêu và cà phê Việt ra thế giới. “Khi làm nông nghiệp, điều đầu tiên Phúc Sinh nghĩ tới là phát triển bền vững” – ông Thông chia sẻ.

Năm 2008, khi chỉ mới xuất khẩu tiêu, Công ty đã bắt tay xây nhà máy tiệt trùng. Trong năm 2009, khi sang Hà Lan gặp đối tác, ông Thông cho biết đến 90% sản phẩm tiêu tiệt trùng được cung ứng cho một nhà phân phối sở hữu thị phần rất lớn ở châu Âu. Hiện Công ty này cũng đang phát triển tương tự đối với sản phẩm cà phê và thương hiệu K Coffee. Điều này giúp Phúc Sinh không bị làm khó bởi những yêu cầu mới từ châu Âu.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

0858775778